Tên gọi khác: Rau má mỡ, Rau má chuột, Rau má họ, Thiên hồ thái, Thạch hồ tuy
Tên khoa học: Hydrocotyle sibthorpioides Lam. – H. rotundifolia Roxb.
Họ: Apiaceae
Nơi sống: Chi Hydrocotyle L. có 9 loài ở Việt Nam đều là loại cây thảo, trong đó đáng chú ý cây mỡ về sự phân bố tương đối phổ biến ở khắp các tỉnh đổng bằng, trung du và cả ở vùng núi có độ cao khoảng 1000m. Tuy nhiên, ở các tỉnh phía nam, cây chỉ thấy mọc ở vùng núi từ độ cao khoảng 500m trở lên. Cây mỡ còn có ở Trung Quốc và các nước khác ở vùng Đông Nam Á.
II. Đặc điểm của cây
Cây thảo nhỏ, sống dai. Thân mảnh mọc bò mang rễ ở các mấu, rồi đứng thẳng, nhẩn hoặc hơi có lông, có thể dài đến 50cm.
Lá mọc so le, hình tim hoặc hình thận, gần tròn, chia nhiều thùy nông, rộng 1 – 1,5cm, mép khía răng tù; cuống lá dài 1 – 4cm; lá kèm dễ rụng.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành tán đơn; cuống cụm hoa dài, có lông; tổng bao gồm 4 – 10 lá bắc, nhẵn hoặc hơi có lông; hoa nhỏ, 3-8 trong một tán, màu trắng; đài 0, tràng có 5 cánh nhọn; nhị 5, xếp xen kẽ với cánh hoa.
Quả dẹt, có cạnh lồi, nhẵn hoặc có lông rất nhỏ, khi chín màu vàng hoặc nâu. Mùa hoa quả: tháng 4-8.
Cây mỡ có vị ngọt nhạt, hơi cay, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu đờm, tiêu viêm, lợi tiểu.
Cây mỡ dược dùng toàn cây chữa viêm gan vàng da, viêm gan truyền nhiễm và xơ gan hay chữa cảm cúm cảm sốt, ho, viêm họng.
Trong y học cổ truyền Trung Quốc, cây mỡ trị viêm, vết thâm tím, vàng da và bí tiểu tiện. Ở Ấn Độ, nhân dân dùng rau má mỡ trị thấp khớp, rối loạn chức năng hô hấp và tiêu hoá, bệnh giang mai, bệnh da giun.
Dịch ép cây mỡ bôi ngoài da trị ban da. Lá cây mỡ đắp nhọt làm chóng mưng mủ.