Tên gọi khác: Mè đất hoang, Bạch thiệt, Phong sào thảo
Tên khoa học: Leucas zeylanica (L.) R. Br. – Phlomis zeylanica L
Họ: Lamiaceae
Nơi sống: Ở Việt Nam, cây phân bố ở hầu hết các tỉnh vùng núi và trung du, nhất là ở miền Bắc. Cây ưa sáng, mọc nhanh, thường tạo thành quần thể trên các nương rẫy, ven rừng và ở đồi.
II. Đặc điểm của cây
Cây thảo, sống hàng năm, cao 20 – 40cm, thân vuông, hoá gỗ ở gốc, mọc thẳng, phân nhiều cành, có lông.
Lá mọc đối, hình mác hẹp, dài 2 ~ 5cm, gần như không cuống, gốc thuôn, đầu nhọn, mép có răng cưa thưa, hai mặt có lông.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân và đầu cành thành đầu hình cầu, đường kính 1,5 – 2cm gồm nhiều hoa màu trắng; lá bắc dài bằng hoặc vượt hơn đài hoa; đài hình ống có 10 răng; tràng có ống thẳng, bên trong có một vòng lông, chia 2 môi, môi trên có lông, môi dưới dài hơn, chia 3 thùy; 4 nhị. quả bế, hình trứng nhẵn, có cạnh màu nâu.
III. Ý nghĩa và tác dụng của cây
Mè đất có vị đắng, cay, tính ẩm, mùi thơm, có tác dụng giải cảm, hoá đàm, chỉ khái, tiêu viêm, sát trùng.
Mè đất được dùng chữa cảm sốt, ho, viêm đường hô hấp; dùng phối hợp với các vị thuốc khác chữa ho gà cho trẻ nhỏ rất tốt.
Theo tài liệu nước ngoài, dịch ép từ cây mè đất chữa một số bệnh ngoài da như ghẻ lở, vẩy nến, vết thương sưng đau. Ở Ấn Độ, hoa mè đất chữa cảm sốt, lá chữa thấp khớp mạn tính.
Cây ưa sáng, mọc nhanh, thường tạo thành quần thể trên các nương rẫy, ven rừng và ở đồi. Phần thân phân nhánh khỏe theo kiểu lưỡng phân, hầu như nhánh nào cũng có hoa ờ đầu cành.
Khi quả già tự mở, hạt rơi xuống đất và mọc thành cây con vào tháng 3 – 4 hàng năm. Cây tàn lụi vào mùa đông. Mè đất là loài cỏ dại ảnh hưởng đến cây trồng.