Tên thường gọi: Viên bách, Tùng xù, Bách tròn, Cối tía, Tử cối.
Tên gọi khác: Bách xù
Tên khoa học: Juniperus chinensis L.
Họ: Bách (Cupressaceae)
Nơi sống:
Chi Juniperus L có khoảng 50 loài, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới Bắc bán cầu. Ở việt nam chi này chỉ có 2 loài được trồng làm cảnh.
Bách xù phân bố ở vùng Đông Nam Á bao gồm Mông cổ, Trung quốc, Triều tiên và Nhật bản. Cây đã được nhập trồng cả một số nước khác ở châu á, châu âu và châu mỹ.
Ở việt nam , bách xù được nhập nội vào thời gian nào chưa rõ, song có những cây được trồng ở tam đảo, Hà Nội và một số địa phương khác có khoảng 100 tuổi.
II. Đặc điểm của cây
Cây gỗ, ,thường xanh. Thân hình trụ, cành nhỏ tròn hơi vuông. Lá nọc áp sát vào cành, hình kim ở cành non và dang vảy ở cành già.
Lá dạng vảy, xếp dày đặc, đầu tù, có tuyến ở gân giữa lá.
Cụm hoa là những nón, đực và cái riêng, nón đực hình trứng dài, nón cái hình cầu.
Nón quả gân tròn, đường kính 6 – 8 cm. Khi chin màu nâu, phủ phấn trắng: hạt 1-4, thường là 2-3.
III. Ý nghĩa và tác dụng của cây
Bách xù được dùng chữa cảm mạo phong hàn, co quắp, thổ tả, phong thấp, đau nhức xương, hoàng đản. Ngày dùng 30 – 40 g cành lá, sắc uống ; hoặc uống tinh dầu, 10 – 15 giọt với đường, ngày 2 – 3 lần; kết hợp xoa ngoài. Lá bách xù tươi, giã nát, đắp chữa mày đay, nhọt độc.
Bách xù thường được trồng làm cảnh, hạt ép lấy dầu nhờn. Cành lá được dùng cất tinh dầu, mạt cưa của cây và gỗ thân cây để làm hương thắp.
Bách xù là cây hơi chịu bóng hoặc có thể trồng được cả những nơi trống trải (vùng núi cao), sinh trưởng và phát triển trong điều kiện có khí hậu ẩm mát.
Cây mọc tự nhiên ở Trung Quốc và mông cổ vẫn tồn tại được trong mùa đông lạnh khắc nghiệt. Bách xù trồng ở Tam đảo xuất hiện nón sinh sản vào khoảng tháng 3-4. Chưa thấy cây con mọc từ hạt. Gần đây, người ta đã tạo được nhiều cây con từ cành bánh tẻ bằng cách sử dụng các chất kích thích ra rễ.